Giới thiệu

Một triệu viên nang Hoàn ngọc đầu tiên cho chương trình “đồng hành cùng bệnh nhân nghèo mang bệnh hiểm nghèo”



Cục thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ) vừa trao giấy chứng nhận Đăng ký kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp nhà nước cho DNTN Trà hoàn ngọc 7 Nga Tây Ninh với Dự án: Nghiên cứu quy trình công nghệ tạo chế phẩm hỗ trợ phòng chống khối u từ cây hoàn ngọc. Báo Khoa học và Đời sống đã có cuộc trao đổi với TS Nguyễn Thị Minh Hằng (Viện hóa sinh biển – Viện Khoa học công nghệ Việt Nam – Chủ nhiệm đề tài, dự án, bà Bùi Kim Nga – Chủ DNTN Trà hoàn ngọc 7 Nga Tây Ninh xung quanh vấn đề này.

 

Quá trình nghiên cứu các thành phần của cây hoàn ngọc, đã phân định được những chất gì để tạo chế phẩm phòng chống khối u?

TS Nguyễn Thị Minh Hằng: Cây Hoàn Ngọc có tên khoa học là (Pseuderanthemum palatiferum (Nees) Raldk.) đã được sử dụng trong dân gian từ rất lâu để chữa một số bệnh. Bộ phận được sử dụng chủ yếu trong dân gian là lá cây. Từ năm 2007, DNTN Trà Hoàn Ngọc đã phối hợp với chỗ tôi (Viện hóa sinh biển) để nghiên cứu về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của cây Hoàn Ngọc. Trong quá trình nghiên cứu, từ rễ cây Hoàn Ngọc, chúng tôi đã phân lập được một số chất có khả năng kháng u thuộc lớp chất tritecpen. Có hàm lượng lớn nhất là 2 chất lupeol và betulin. Đây là 2 chất tritecpen có phổ hoạt tính sinh hoc rộng, đã có rất nhiều công trình khoa học trên thế giới công bố về hoạt tính sinh học của các chất này.

Trên cơ sở các kết quả đã nghiên cứu về thành phần hóa học của rễ cây Hoàn Ngọc, trong khuôn khổ đề tài “Nghiên cứu quy trình công nghệ tạo chế phẩm hỗ trợ phòng chống khối u từ cây hoàn ngọc” chúng tôi đã xây dựng một quy trình chiết xuất được chế phẩm trong đó có tổng hàm lượng lupeol và betulin lớn hơn 80% và đã thử khả năng kháng u của chế phẩm này cùng một số chế phẩm khác từ cây Hoàn Ngọc.

 

Xin cho biết vì sao lại sản xuất hai chế phẩm phòng chống khối u mà không phải là một chế phẩm?

Bà Bùi Kim Nga: Cây Hoàn Ngọc có lá và rễ đều đã được nghiên cứu về hoạt tính, ở lá và rễ có những thế mạnh khác nhau.

Dịch chiết 80% etanol của lá hoàn ngọc khô đã được nghiên cứu sơ bộ về độc tính. Kết quả cho thấy dịch chiết này không thể hiện độc tính cấp và bán cấp trên chuột thực nghiệm ở các liều 1000 mg/kg chuột và 2000 mg/kg chuột qua đường uống và không thể hiện độc tính đối với các tế bào lành tính ở nồng độ 50 µg/mL.

Năm 2010, P. Padee và cộng sự ở trường Đại học Mahasarakham, Thái Lan đã nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết của cao dịch chiết 80% etanol lá cây hoàn ngọc trên chuột bị bệnh tiểu đường bình thường và chuột bị bệnh tiểu đường do streptozotocin. Kết quả cho thấy, dịch chiết đã có tác dụng hạ đường huyết trên chuột bị tiểu đường. Dịch chiết cũng có tác dụng ngăn chặn các biến chứng do bệnh tiểu đường gây ra và tăng cường chức năng của gan và thận.

Năm 2011, nhóm nghiên cứu của P. Khonsung ở Đại học Chiềng Mai, Thái Lan đã cho biết dịch chiết nước của lá cây hoàn ngọc tươi có tác dụng hạ huyết áp và làm giảm nhịp tim.

Nhóm của PGS. TS Nguyễn Văn Hùng nghiên cứu từ  lá cây hoàn ngọc thu hái tại Hà Nội đã phân lập được các chất β- sitosterol, phytol, 3-O-(β-D-glucopyranosyl)-sitosterol, hỗn hợp stigmasterol và poriferasterol, 1-triacoltanol, glycerol 1-hexadecanoate, axit palmitic và axit salicylic.

Còn nghiên cứu từ rễ cây hoàn ngọc thu hái tại vườn trồng của DNTN trà hoàn ngọc 7 Nga Tây Ninh đã phân lập được một số hợp chất tritecpen có hoạt tính sinh học giá trị là lupeol, betulin và lupenone. Rễ cây cũng chứa một số tritecpen khác là epifriedelanol và axit pomolic với hàm lượng nhỏ. Ngoài ra, nó còn chứa một số chất thuộc các lớp chất khác như b-sitosterol, b-sitosterol glucoside... Hai thành phần chính của rễ cây cũng đã bước đầu được nghiên cứu về hoạt tính gây độc tế bào đối với ba dòng tế bào ung thư vú MCF-7, ung thư gan Hep-G2 và ung thư biểu mô KB. Betulin có hoạt tính trên cả ba dòng tế bào được thử MCF-7 (IC50 6,65 µg/ml), Hep-G2 (IC50 32 µg/ml) và KB (IC50 26 µg/ml), còn lupeol có tác dụng đối với dòng tế bào ung thư vú MFC-7 với IC50 là 18,29 µg/ml.

Chính vì vậy, chúng tôi đã quyết định đưa ra sản xuất thử nghiệm 2 chế phẩm phục vụ cho những đối tượng khách hàng có nhu cầu khác nhau.

Quy mô sản xuất, quy trình công nghệ, công suất của nhà máy?

Nhà máy sắp tới của dự án được xem là nhà máy chiết xuất dược liệu đầu tiên của tỉnh Tây Ninh, sử dụng công nghệ hiện đại, đạt vệ sinh. Đặc biệt là chúng tôi không chỉ chú trọng nâng tầm quy mô nhà máy mà còn đầu tư nguồn nguyên liệu phong phú, chủ động nuôi trồng cây Hoàn Ngọc theo quy trình GAP. Kết hợp chặt chẽ với kinh nghiệm chăm sóc, thu hoạch sao cho tính dược trong cây đạt cao nhất.

 

Đơn vị đầu tư có những kế hoạch ra sao để chia sẻ với bệnh nhân?

Hai sản phẩm sắp tới là kết quả từ tâm huyết và tài lực của nhà nước, các nhà khoa học. Là sản phẩm từ đề tài khoa học cấp nhà nước, nên yếu tố về khoa học, lâm sàng… cũng đã được nghiên cứu và chứng minh rất kỹ. Đó là sự tin tưởng cho khách hàng khi sử dụng những sản phẩm của DN. Chúng tôi đã cho thử an toàn tiền lâm sàng như: độc tính, tác dụng phụ, liều dùng có hiệu quả,… Và sẽ cố gắng phát triển thêm nhiều sản phẩm sao cho khách hàng sử dụng tiện lợi và đạt hiệu quả cao nhất. Ngoài ra, chúng tôi cũng dự định sẽ dùng 1 triệu viên đầu tiên cho chương trình “đồng hành cùng bệnh nhân nghèo mang bệnh hiểm nghèo” – những người bệnh không có đủ điều kiện về tài chính cũng sẽ có dịp sử dụng sản phẩm này.